Hôm nay, Thứ Sáu ngày 22 tháng 11 năm 2024
Thứ Bảy, 10/09/2016 - 09:25:54
(3429 lượt xem)
5 lời đồn về sáng tạo mà có lẽ bạn tin

Những quan niệm sai lầm về sáng tạo khoác lên nó một chiếc áo kỳ bí – Những ý tưởng cho rằng tiềm năng sáng tạo và trí tưởng tượng là những món quà hiếm có dành cho một số ít người. Bài viết này làm sáng tỏ vài việc không đúng về thần kinh và tâm lý học của sáng tạo.

 

Lời đồn 1: Để sáng tạo bạn cần một bộ óc với tư duy bằng não phải. (right-brained)

Ở đây, ngụ ý của “kiểu sáng tạo” đi kèm với nhưng tư duy kiểu cũ cho rằng; Não trái ra các quyết định logic, trong khi não phải chi phối những ý tưởng và trí tưởng tượng, sự khác biệt.

 

Đó là một ý kiến có hại bởi nó cho rằng nếu bạn là kiểu bộ não trái chẳng hạn, bạn không thể làm sáng tạo. Lời đồn này thường xuyên được áp dụng cho các nhóm cụ thể, cung cấp bởi nền tảng khoa học lỗi thời, giống như một cuộc chiến trong phòng họp về: Tại sao những người quản lý “bằng não trái” và những người làm marketing “bằng não phải” không đối mặt trực tiếp.

 

Sự thật rằng cả hai bán cầu não làm các chức năng khác nhau, nhưng điều quan trọng là chúng cùng được tạo bởi các sợi thần kinh và hầu hết các vấn đề được xử lý cùng một lúc khi cần sự sáng tạo, vâng, có những nghiên cứu chỉ ra rằng bán cầu não phải rất quan trọng cho việc giải quyết vấn đề, nhưng cũng có bằng chứng cho thấy bán cầu não phải thành thạo trong việc dẫn dắt vấn đề.

 

Không chỉ đơn giản hoá việc sáng tạo như là sự độc quyền của não phải, cũng là sai lầm khi than phiền rằng một số người là não phải và một số người là kiểu não trái.

 

Trong năm 2013, những nhà nghiên cứu quét não bộ của hàng ngàn người và thấy rằng không có bằng chứng nào đi theo cách nghĩ này. Việc gọi một số người là não phải hoặc não trái có lẽ tốt hơn là nói họ là Virgo (xử nữ) hay là Pisces (song ngư).

 

Sáng tạo không là việc của một bên nào, và nó không phải là một tài năng cho những ai có khả năng đặc biệt về bộ não. Khoa học thần kinh cho rằng: Nếu bạn là con người, và bạn có một bộ não, bạn đã có khả năng sáng tạo.

Lời đồn 2: Bạn cần phải hy vọng cho một khoảng khắc”Eureka!”.

Micheael Jackson từng mô tả làm thế nào mà đoạn trống cho bản hit “Billie Jean” xuất hiện trong tay, nó như thể một món quà từ Chúa. Nó giống như một phiên bản hiện đại của của việc Newton khám phá ra lực hẫp dẫn khi bị một quả táo rơi trúng đầu.

 

Lời đồn của nhưng sáng tạo đột xuất này thường thú vị vì nó cho ta cảm giác những ý tưởng là một khoảng khắc loé sáng của thiên tài. Tuy vậy, những khoảng khắc như vậy đòi hỏi sự làm việc chăm chỉ và kiên trì là những yếu tố cần thiết được đặt lên hàng đầu.

 

Newton đã bị ám ảnh bởi công việc và thường xuyên động não về lực hấp dẫn cho đến khi có sự kiện quả táo.

 

Vấn đề với lời đồn của khoảng khắc Eureka là nó khuyến khích niềm tin cho rằng sáng tạo là quá trình thụ động. Nó đề nghị bạn phải đợi và hy vọng bạn sẽ có bước đột phát. Sự thực là khoảng khắc quyết định của sự sâu sắc thường tới như một sự ngạc nhiên – cảm hứng đột nhiên của vô thức.

 

Nhưng điều quan trọng để khiến nó xảy ra là tâm trí của bạn cần những chất liệu, tài liệu để tương tác với chúng. Nó không thể sàng lọc và tự tạo ý tưởng – nó giống như “ủ bệnh” – nếu bạn không làm việc chăm chỉ và tự chuyên nghiệp hoá bản thân, bên cạnh việc tăng cường các góc nhìn khác nhau với mỗi vấn đề.

 

Khoảng khắc Euroka đó là một bước cuối của cả một hành trình, tạo nên bởi quá trình bước tới chứ không phải 1 bước duy nhất.

 

Lời đồn 3: Người sáng tạo thường cô độc, những thiên tài lập dị.

Trong khi phần lớn chúng ta hình dung ra một con người sáng tạo, chúng ta vẽ ra một hình dung ra một nghệ sĩ khác biệt hay một nhà thơ. Thật vậy, những tài liệu được công bố chỉ ra rằng mọi người thường cho rằng những người có vẻ lập dị sẽ có khả năng làm việc sáng tạo và chất lượng cao.

 

Đây là một khuôn mẫu và nó không có ích bởi vì nó đề nghị bạn tạo ra sự tách biệt, lập dị với bạn bè và những người xung quanh.

 

Thực tế, như David Burkus đã giải thích trong Những bí mật của Sáng tạo rằng “Sáng tạo là một sự hỗ trợ của nhóm”. Burkus giải thích về việc nhà phát minh Thomas Edison – luôn được hỗ trợ bởi một nhóm các kỹ sư và sáng tạo. Và tương tự như Michelangelo không vẽ tranh nhà thờ nguyện Sistine một mình, một nhóm các hoạ sĩ tài năng đã cùng giúp ông ấy.

 

Chúng ta nhắc tới Apple với sự sáng tạo, thì chỉ nhớ tới Steve Jobs hay Jony Ive, mà quên đi Steve Wozniak người bạn lặng lẽ của Jobs và nhóm thiết kế tài năng đứng sau Ive, và rất nhiều người chưa được nhắc tới.

 

Bằng chứng rõ ràng hơn của việc này là có nhiều hơn bằng sáng chế được đăng ký bởi những nơi có nhiều chuyên gia sáng tạo. Nó là cuộc giao lưu giữa những bộ óc thúc đẩy sáng tạo, hơn là những gì được che dấu giống như bí mật của các ẩn sĩ.

 

Một quan niệm sai lầm liên quan về những người sáng tạo là họ là những thiên tài với trí tuệ sẵn có. Một nghiên cứu cổ điển phá vỡ ý tưởng này. Quay trở lại những năm 1920. Nhà tâm lý học Lewis Terman bắt đầu quan sát một nhóm với nhóm trẻ thông minh tại California.

 

Ông theo dõi chúng phát triển cho tới tuổi trưởng thành và trên con đường nghề nghiệp. Không ai trong số chúng tiếp tục được đánh giá cao về sự sáng tạo. Như nhà thần kinh Nancy Andreasen từng nói ở The Atlantic năm nay

 

“Kết luận quan trọng từ nghiên cứu của Teman là có chỉ số IQ cao không có nghĩa là sáng tạo cao.” Bạn cần có số IQ vừa phải để trở nên sáng tạo, nhưng IQ cực cao thì không đủ cũng như không cần thiết để trở thành một nhà cải cách.

 

Lời đồn 4. Bạn cần những khuyến khích bên ngoài để sáng tạo.

Trong rất nhiều lĩnh vực của công việc, rất dễ dàng để cho rằng càng nhiều phần thưởng bạn cho ai đó, họ sẽ càng làm những việc tốt. Khi nói đến cách phát huy sáng tạo, điều này không cần thiết. Trên thực tế làm ngược lại là sự thật.

 

Những nghiên cứu đề nghị rằng làm việc nên được định hướng bởi những tham vọng nội tâm và phần thưởng đạt được – nói cách khác là cho niềm vui và sự hài lòng khi làm nó – nó có xu hướng dẫn tới kết quả cuối cùng và những kết quả giàu trí tưởng tượng hơn là làm việc bởi sự thúc đẩy vì lời hứa về những lợi ích bên ngoài, như là tiền hay danh tiếng.

 

Có rất nhiều ví dụ về nguyên tắc này. Trong số những thứ thuyết phục nhất là một nghiên cứu về các nghệ sĩ và điêu khắc gia của Teresa Anmabile tại Harvard Business School. Cô đề nghị những người sáng tạo cung cấp những ví dụ về công việc mà họ cho chính bản thân họ và những sản phẩm khác thì được trả tiền.

 

Tất cả những sản phẩm sau đó được đánh giá bởi những người không làm ra trực tiếp – kết quả cuối cùng những sản phẩm được làm cho chính bản thân được đánh giá cao từ ban giám khảo.

 

Điều này cũng tương tự với câu chuyện khi Amabile đề nghị những sinh viên nữa tạo ra một tác phẩm cắt dán từ giấy. Một nửa trong số đó được thông báo rằng họ sẽ bị đánh giá bởi chất lượng cuối cùng, trong khi số khác được biết mục đích của nghiên cứu hoàn toàn không liên quan tới nghệ thuật họ làm.

 

Kết quả ở đây là những người phụ nữ tạo ra những tác phẩm giấy tốt hơn khi họ nghĩ rằng họ sẽ không bị đánh giá = một ví dụ về việc chúng ta trở nên sáng tạo hơn khi chúng ta được dẫn dắt bởi động lực nội tại hơn là những phần thưởng bên ngoài. Như Alfie Kohn, tác giả của Punished by Rewards, nhấn mạnh “Đơn giản là không thể hối lộ con người để sáng tạo.”

Lời đồn 5. Bão não “Brainstorming” là cách tốt nhất để cùng nhau sáng tạo

Chúng ta đã thấy rằng việc sáng tạo đơn lẻ là điều khó khăn. Cái hữu ích nhất, những ý tưởng sáng tạo thường xuyên được sinh ra từ một cuộc họp của các bộ não. Thật không may, nảy sinh ra “thần thoại” của vấn đề này là; cách tốt nhất để tạo ra ý tưởng là tạo ra những buổi Brainstorming truyền thống.

 

Điều này có nghĩa là một nhóm sẽ cùng đối mặt với một vấn đề và họ sẽ cùng giải quyết bằng cách ngồi xung quanh bàn và bày ý tưởng ra cùng với nhau.

 

Quy trình này cực kỳ phổ biến, đặc biệt trong các công ty, nhưng một lần nữa các nghiên cứu chỉ ra rằng con người thực tế tạo một số lượng và ý tưởng tốt hơn khi họ làm việc độc lập, hơn là khi thả họ vào một buổi brainstorm.

 

Điều này có vẻ mâu thuẫn về sự huyền bí của những thiên tài cô độc, nhưng điểm quan trọng ở đây là con người cần thời gian để làm việc riêng biệt trước, và sau đó họ mới được đặt vào các quy trình.

 

Những nhóm về brainstorming là cách hiệu quả để chia sẻ và kết hợp các ý tưởng của mọi người và các giải pháp (và điều có giá trị cần ghi nhớ là rất nhiều phát minh quan trọng nhất và các sáng tạo được kết hợp bởi những ý tưởng đang tồn tại), nhưng là sai cách khi cùng ngồi với nhau để suy nghĩ ý tưởng ở giai đoạn đầu và dĩ nhiên nó không nên đặt ở giai đoạn cuối của quá trình sáng tạo.

 

Điều cũng quan trọng để thực hiện buổi Brainstorming theo đúng cách. Các nhóm cần bảo vệ ý tưởng của mình trước những người được chỉ định để “hạ thủ” ý tưởng đó. và các cá nhân thụ động cần được khuyến khích để chia sẻ ý tưởng của họ mà không thấy sợ vì bị đánh gia hay chế giễu.

 

————

 

Tiềm năng về tạo ra trí tưởng tưởng nằm trong tất cả chúng ta. Nhưng nó không tới mà không cần nỗ lực. Chúng ta phải cân bằng thời gian riêng tư với sự kết hợp. Chúng ta phải nghiên cứu, lắng nghe và gặp những người khác, gieo những hạt giống suy nghĩ mới mẻ trong trí não chúng ta. Chuẩn bị nền tảng cẩn thận và bạn sẽ được thàn quả với những ý tưởng mới.

 

 iDesign/ 99U

|
|
Xem tốt nhất với IE 7.0+, FireFox, Safari, Google Chrome, Opera (độ phân giải 1024x768+)
Copyright © 2010 by POLYGON Center. Designed by EGS.