Giống như bất kỳ một ngành nghề khác hoặc một công
việc mang tính kỹ thuật nào đó, nhiếp ảnh là một nghệ thuật và là một
ngành khoa học có một số thuật ngữ kỹ thuật rất khác biệt, là cái tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình truyền thông các ý tưởng và nhận thức
được dễ dàng hơn. Nếu không có chúng thì ta sẽ gần như không thể giao
tiếp và hiểu được vấn đề trong một nỗ lực tột bậc nhằm xử lý công việc
một cách thích đáng bằng những cố gắng của chúng ta.
Như một hình
thức biểu hiện thị giác, nhiếp ảnh quả thật rất độc đáo và ta không thể
đem so sánh nó với bất kỳ một chi nhánh nào khác của nghệ thuật biểu
hiện thị giác.
Sở dĩ nó độc đáo là do bởi những điều sau:
Tính xác thực:
Các bức vẽ và các bức tranh là chủ thể đến sự tưởng tượng và do vậy
không chính xác và cũng không thật đầy đủ. Thế nhưng một bức ảnh lại là
một “nhân chứng sống” và do đó hoàn toàn thuyết phục. Ngay cả khi nhiếp
ảnh gia đã chứng tỏ mình rất chủ quan thế nhưng vẫn có dấu ấn của tính
xác thực trong tác phẩm của anh ta. Màn trình diễn trong một bức ảnh là
hết sức xác thực và đúng với sự thật.
Tốc độ ghi hình: Các bức
ảnh được thực hiện với tốc độ, theo nghĩa đen, bằng phân số của giây.
Các hình ảnh được ghi chép một cách chính xác trong thời gian hầu như
bất kỳ lúc nào. Ngay cả khi sự kiện đang diễn ra một cách nhanh chóng,
một máy ảnh trung thực có thể ghi lại các chi tiết với độ chính xác
100%.
Độ chính xác trong màn trình diễn: Các bức ảnh ghi lại
thực tế như chúng vốn có trong từng chi tiết đầy đủ và không có chỗ cho
bất kỳ sự thiên vị hay định kiến nào. Một họa sĩ sẽ ghi lại một đối
tượng hay một sự kiện nào đó theo cái cách mà anh ta/cô ta muốn, trong
khi một người quay phim chụp ảnh chỉ có thể ghi lại, bằng sự trợ giúp
cơ khí, chính xác những gì ở đằng trước ống kính.
Ánh sáng
Đối
với một nhiếp ảnh gia thì phương tiện truyền thông chính là ánh sáng,
cũng giống như đối với nhà văn là ngôn từ. Việc ánh sáng đủ hoặc không
đủ sáng thôi vẫn chưa phải là toàn bộ vận đề. Ánh sáng còn có những đặc
tính khác, là cái tạo ra những hiệu ứng đặc biệt. Ta chỉ có thể đạt được
những hiệu ứng đặc biệt này nếu nhiếp ảnh gia có thể kiểm soát được ánh
sáng. Ánh sáng có đặc tính mấu chốt đó là độ sáng. Nó quyết định độ
phơi sáng cần thiết và cũng ảnh hưởng đến tâm trạng của một bức ảnh. Một
ánh sáng chói thì gay gắt và sắc nét trong khi ánh sáng dịu thì đầy bí
ẩn. Ở trường hợp trước các đối tượng xuất hiện tươi sáng hơn và tương
phản hơn trong khi ở trường hợp sau chúng trông có vẻ ít bão hòa hơn và
nặng nề hơn. Điều này hoàn toàn phụ thuộc việc nhiếp ảnh gia lựa chọn
ánh sáng sao cho phù hợp với chủ đề.
|
Màu
của ánh sáng là một yếu tố khác xác định việc chọn sáng. Ta chỉ có thể
đạt được màu sắc tự nhiên nếu ta sử dụng một loại phim phù hợp (được
thiết kế để xử lý riêng cho loại ánh sáng đó). Nếu phim được chỉ định sử
dụng với ánh sáng vonfram mà ta lại sử dụng trong ánh sáng ban ngày thì
kết quả thu được sẽ bị sai lệch màu sắc khá lớn với màu tạp là một màu
xanh đậm. Màu phải được đo bằng nhiệt độ màu (sắc ôn - color
temperature), đơn vị là độ Kelvin (viết tắt là K). Ví dụ, ánh sáng ban
ngày có nhiệt độ 5500 K là thứ ánh sáng thích hợp cho loại phim cân bằng
ánh sáng ngày (daylight balanced film). Người ta sử dụng một đồng hồ đo
độ phơi sáng sắc ôn (color-temperature exposure meter) để đo nhiệt độ
của bất kỳ loại ánh sáng nào và các bộ lọc cân bằng màu sắc phù hợp sẽ
được sử dụng để tăng hoặc giảm nhiệt độ màu từ đó cho ra những kết quả
thật hoàn hảo.
Thật sự hữu ích khi đề cập ở đây rằng nhiệt độ màu
không phải là bất biến trong ngày. Nhiệt độ màu thấp hơn vào buổi sáng,
tăng lên đến giá trị tối đa của nó vào buổi trưa và một lần nữa bắt đầu
giảm xuống vào buổi chiều.
Bên cạnh việc làm cho ta có thể nhìn thấy
các đối tượng, ánh sáng cũng cho phép thiết lập một mối quan hệ giữa
khối và chiều sâu. Nó tạo nên tâm trạng của một bức ảnh và cũng có thể
tạo ra các mẫu thiết kế màu hoặc trắng đen. Để tạo ra một cảm giác ba
chiều, một nhiếp ảnh gia sẽ chơi đùa với ánh sáng và bóng tối để tạo ra
một ảo giác về chiều sâu. Trong ánh sáng yếu, bóng tối khuếch tán, đối
tượng xuất hiện phẳng lì. Trong các bức vẽ và tranh bóng tối được tạo ra
bằng cách che chắn. Trong nhiếp ảnh điều này được thực hiện bằng cách
đưa ra ánh sáng từ một bên và tạo ra các vùng bóng tối để phối hợp với
ánh sáng. Nhiếp ảnh gia có thể sử dụng một bóng đèn phía trước, đèn cạnh
bên, đèn hắt từ trên xuống, đèn đánh từ dưới lên và đèn màu đen. Tất cả
những thứ này tạo ra các vùng bóng tối khác nhau để đáp ứng những mục
đích riêng biệt.
Tâm trạng và bầu không khí chủ yếu được tạo ra do
bởi ánh sáng. Một tâm trạng bí ẩn cần những mảng tối thật rộng lớn. Sự
rọi sáng có một ảnh hưởng nhất định lên “cảm xúc” của một bức ảnh. Ánh
sáng có sẵn hỗ trợ ta trong việc tả “chất tự nhiên” của một bối cảnh.
Một tuyên ngôn xúc cảm có thể được thực hiện bằng các bức ảnh đầy tâm
trạng. Sương mù dày đặc trong một bức ảnh chụp cảnh núi sẽ tạo ra một
cảm giác tự nhiên là ta đang hiện hữu ở nơi đó trong làn sương mù mờ ảo.
Trí tưởng tượng của người quan sát được hòa trộn với việc sử dụng đúng
loại ánh sáng cần có.
Màu sắc là một sản phẩm của ánh sáng. Thiếu
vắng ánh sáng, trong bóng tối, thậm chí ngay cả những đối tượng lắm màu
sắc nhất cũng sẽ xuất hiện đen ngòm. Chúng sẽ mất màu. Điều này hoàn
toàn đúng. Nói vậy không có nghĩa là màu sắc không tồn tại. Nó tồn tại,
nhưng ta không thể nhìn thấy vì thiếu ánh sáng. Nói một cách khác, trong
bóng tối màu sắc không còn tồn tại nữa.
Từ tuyên bố trên, rõ ràng là
màu sắc của một đối tượng phụ thuộc vào lượng ánh sáng. Để thể hiện một
bối cảnh theo một cách cụ thể mà ta mong muốn, chất lượng của ánh sáng
phải được nghiên cứu đúng cách. Bằng cách lựa chọn màu sắc, một nhiếp
ảnh gia chụp ảnh màu có thể thổi vào hình ảnh một ý nghĩa cụ thể hay một
tâm trạng nào đó.
Những màu sắc mạnh mẽ và độ bão hòa cao có thể tạo
ra một ấn tượng xông xáo, nhấn mạnh sức mạnh của đối tượng. Những màu
nhạt được sử dụng cho các đối tượng phức tạp và tinh tế để gợi nên một
tâm trạng nhẹ nhàng hơn. Màu nhạt được liên hệ với tâm trạng vui vẻ và
hớn hở trong khi các màu tối là chỉ dấu của những tình huống ảm đạm. Màu
đỏ gợi nên tâm trạng xông xáo và náo nhiệt và do vậy nó được sử dụng
rộng rãi cho các mẩu quảng cáo, áo jacket, sách và các tờ áp phích. Màu
xanh, ở phía đối nghịch lại, thụ động hơn, biểu hiện tâm trạng yên tĩnh
và mát mẻ.
Các nhiếp ảnh gia giàu kinh nghiệm biết rằng màu sắc trung
thực không nhất thiết cứ phải là màu thật đẹp, sự thể hiện màu chỉ có
thể có hiệu quả khi các màu sắc xuất hiện một cách tự nhiên. Và chỉ như
thế chúng mới có thể thật chính xác và trở nên hiệu quả hơn.
Hướng ánh sáng
Hướng ánh sáng có ảnh hưởng sâu sắc đến cách thức các đối tượng được chụp.
Ánh sáng đánh trực diện (Frontal lighting) rất tốt cho việc tăng cường màu sắc.
Ánh sáng bên (Side lighting) là ánh sáng tốt nhất để bộc lộ hình và đem lại một sự nhận rõ tính chất 3 chiều của đối tượng.
Ánh
sáng nền (Back lighting) có tác dụng làm giảm hình của một đối tượng
thành một bóng âm ảnh (silhouette). Tuy nhiên nó lại tạo ra một ánh sáng
lờ mờ phía trong các đối tượng mờ đục nhưng xuyên sáng.
Chất lượng ánh sáng
Ánh
sáng ban ngày có thể dịu mà cũng có thể gắt, điều này tùy thuộc vào
thời tiết và thời gian trong ngày. Khi ánh sáng mặt trời chói lọi, nó
giúp ta tăng cường màu sắc thế nhưng những vùng tối sẽ rất đậm.
Khi
bầu trời hơi u ám một chút, ánh sáng bị khuếch tán, điều này khiến cho
màu sắc bị câm đi một chút, nhưng sẽ hiện rõ các chi tiết trong những
vùng tối.
Chụp ảnh dưới ánh sáng tự nhiên
Ánh sáng tự nhiên luôn
thay đổi hướng, màu sắc và chất lượng. Phong cảnh mà chúng ta nhìn thấy
vào buổi sáng sớm sẽ mang một dáng vẻ mới vào giữa buổi sáng, buổi chiều
và lúc hoàng hôn buông xuống. Bạn có thể tận dụng tốt ánh sáng tự nhiên
bằng cách chọn đúng thời điểm trong ngày, và thường là bằng cách thay
đổi điểm nhìn của mình với sự lưu tâm đến hướng ánh sáng.
Thời gian trong ngày
Tại
thời điểm trước bình minh (từ 4 giờ đến 5 giờ), ánh sáng có thể mang
một sắc xanh dương nhẹ, tương tự như thời điểm buổi chiều tối hoặc lúc
hoàng hôn. Khi mặt trời mọc (từ 5 giờ đến 6 giờ) ánh sáng mặt trời cho
ta một sắc cam.
Vào khoảng giữa buổi sáng (8 giờ đến 10 giờ) khi mặt
trời sáng chói nhưng vẫn ở vị trí thấp trên bầu trời, ánh sáng đem lại
cho ta màu sắc mạnh mẽ và các chi tiết thì thật rõ ràng.
Vào buổi
trưa (chính ngọ), ánh sáng mặt trời gay gắt và mặt trời ở ngay trên đỉnh
đầu của đối tượng. Ánh sáng này gây ra những vùng tối sâu thẳm và đây
là thứ ánh sáng không được coi là đạt yêu cầu trong nhiếp ảnh.
Vào buổi chiều (từ 15 giờ đến 17 giờ), mặt trời một lần nữa ở một góc độ nào đó và ánh sáng bắt đầu dịu đi.
Chập tối, mặt trời bắt đầu lặn, nó bao phủ bối cảnh bằng một thứ ánh sáng vàng kim.
Khoảng thời gian giữa buổi sáng và đầu buổi chiều tối được gọi là “quãng thời gian vàng” trong nhiếp ảnh.
(còn tiếp...)
Phạm
Xuân Bách dịch
từ bài viết Language of Photography của tác giả Narendra Motwani
đăng trên trang www.instantshift.com